Đế Tào Thanh Hồ Phủ, một là vì loại này có nguồn gốc ở Hồ Phủ, hai là vì vẻ ngoài của nó có những đặc tính rất giống với đế tào thanh Hoàng Long Sơn, ba là vì tính chất của nó cũng giống với đế tào thanh Hoàng Long Sơn, nên được gọi là “Đế tào thanh Hồ Phủ”. Nguyên khoáng nằm ở cầu cảng Quân Sơn gần trạm đường sắt mới Đinh Sơn – cũng là nơi giao thoa giữa phía nam thị trấn Định Thục, thành phố Nghi Hưng và thị trấn Hồ Phủ, nên mọi người còn gọi nó là “Tử nê Quân Sơn”.
Nhìn từ bề mặt khai thác còn lại hiện thời, quặng tử nê Quân Sơn thuộc mỏ khoáng sản đất sét tổng hợp tầm trung, nguyên khoáng phân bố ở trong tầng quặng giáp nê ở phần bụng núi (ảnh 4-22), tầng quặng rất dày. Tương truyền, vào thời nhà Thanh, người dân ở gần đó đã khai thác đất tử sa bằng cách đào đường hầm ở phần chân núi trong lúc nông nhàn. Vì vậy những tác phẩm làm bằng loại đất tử nê mỏ này rất giống với các tác phẩm tử nê giữa và cuối đời Thanh còn lưu truyền lại.

Ảnh 4-23: Một phần quặng tử nê Quân Sơn
Quặng tử nê Quân Sơn có tầng quặng dày, chủng loại tử nê phong phú, đế tào thanh Hồ Phủ chỉ là một loại đất điển hình trong số đó. Quặng Đế tào thanh Hồ Phủ cómàu tím đỏ, tím nâu, tím thanh, bề mặt quặng có khá nhiều mảnh mica trắng, cũng có “mắt gà”, nhưng có màu vàng xám, vẻ bề ngoài không có độ thuần như đế tào thanh Hoàng Long Sơn, tạp chất nhiều hơn đế tào thanh Hoàng Long Sơn. Là các khối chắc, một số có chất đất rắn, về tổng thể thì dễ vụn.

Ảnh 4-25: Tử nê Quân Sơn mang tính đại diện
Thành phần của nó về cơ bản giống với đế tào thanh Hoàng Long Sơn, gồm có hydromica, cao lanh, mạt thạch anh, một vài chất ô xít sắt…Thành phần hóa học chủ yếu là: SiO2 63.01%, Al2O3 21.16%, Fe2O3 8.90%, MgO 0.71%, CaO 0.67%, K2O 1.36%, Na2O 0.18%, LOI 6.30%.

Nếu so sánh với đế tào thanh Hoàng Long Sơn, chất đất của đế tào thanh Hồ Phủ khá thô, tính tạo hình khá thấp. Hàm lượng K2O và Na2O khá thấp, nếu dùng đơn độc loại quặng này làm thành tác phẩm thì màu sắc khá khô khan, không ôn nhuận, thêm một chút tử nê Hoàng Long Sơn vào có thể tăng màu sắc và cảm giác ôn nhuận cho nó. Mặc dù đế tào thanh Hồ Phủ về tổng thể tính năng không bằng đế tào thanh Hoàng Long Sơn, nhưng một số phần quặng không kém gì đế tào thanh Hoàng Long Sơn, nhiệt độ nung cao, tính ổn định tốt. Nhiệt độ nung thường dùng là 1150-1200 độ, tỷ lệ co ngót tổng thể là 9,67%. Sau khi nung, tác phẩm có màu tím nâu, màu sắc thay đổi không rõ ràng, mắt gà màu vàng nhạt trở thành hạt màu hồng, phân bố đều trên bề mặt, nên sau khi nung xong, ấm đế tào thanh Hồ Phủ có nhiều hạt màu hồng, cảm giác hạt mạnh mẽ, tính thấu khí tốt.

Nội dung cuốn “Dương Tiện Minh Sa Thổ” – Lưu Ngọc Lâm
Ý Trà Quán – Chia sẻ kiến thức về trà và ấm!